1. Cần phải hiểu rõ thế nào là tài sản chung.
Theo Điều 33 của Luật Hôn nhân và gia đình:
“Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung”
Nếu như xác định chính xác di sản mà chồng để lại sau khi mất là tài sản chung do vợ chồng cùng tạo ra hoặc được thừa kế, tặng cho chung trong thời kỳ hôn nhân, thì khi chồng mất không để lại di chúc, mảnh đất này sẽ được chia thừa kế theo nguyên tắc tại khoản 2 Điều 66 của Luật Hôn nhân và Gia đình.
“Khi có yêu cầu về chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về chế độ tài sản. Phần tài sản của vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế.”
Căn cứ vào điều luật trên, chúng ta có thể hiểu rằng khi chồng mất, di sản mà chồng để lại vốn là tài sản chung của vợ chồng sẽ được chia đôi, một nửa giá trị của tài sản thuộc quyền sở hữu của người vợ, người vợ hoàn toàn có quyền định đoạt việc bán cho người khác mà không cần hỏi ý kiến của bất cứ ai.
Tuy nhiên, một nửa giá trị còn lại của tài sản được coi là di sản thừa kế của người chồng. Trong trường hợp chồng mất không để lại di chúc, thì sẽ được chia theo pháp luật.
Theo điểm a khoản 1 Điều 651, những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.
Theo đó, khi chồng mất, thì người vợ, cũng như các con và bố mẹ chồng đều thuộc hàng thừa kế thứ nhất và có quyền nhận phần di sản thừa kế như nhau. Một nửa giá trị tài sản là di sản thừa kế của người chồng sẽ được chia đều cho vợ, các con và bố mẹ chồng nếu còn sống.
Khi đó, người vợ không có quyền định đoạt với 1/2 giá trị tài sản còn lại vì quyền này thuộc về tất cả các đồng thừa kế.
2. Người vợ có thể là người quản lý mảnh đất trước khi chia
Đối chiếu theo quy định tại Điều 616 của Bộ luật Dân sự, người vợ cũng có thể trở thành người quản lý di sản thừa kế trong trường hợp được những người thừa kế còn lại cử hoặc nếu chưa cử được, thì người vợ là người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý tài sản có thể là nhà cửa, đất đai, xe cộ. Người vợ tiếp tục là người quản lý di sản, cho đến khi những người thừa kế còn lại thống nhất chọn người quản lý di sản.
Trong quá trình quản lý phần di sản thừa kế của người chồng, người vợ không được quyền bán phần của mảnh đất là di sản thừa kế, nếu chưa có sự đồng ý của các con và bố mẹ chồng bằng văn bản.